Đền Bà Chúa Kho và những nghi thức cần biết khi đến “vay – trả” cõi tâm linh
Trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt, hiếm có ngôi đền nhỏ nào lại thu hút nhiều khách thập phương, đặc biệt là giới kinh doanh, buôn bán như đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh). Tuy nhiên ngôi đền này chỉ đông đúc vào hai dịp là đầu năm và cuối năm bởi quan niệm “đầu năm đi vay – cuối năm đi trả”.
Nhiều người tin rằng những ngày đầu năm mới tới đền Bà Chúa Kho “vay” tiền sẽ giúp cho việc kinh doanh, buôn bán thuận lợi, may mắn. Và có “vay” thì cũng phải có “trả”.
Niềm tin với vị nữ Thánh cai quản kho lương
Thời điểm cận Tết này và sau khi kim đồng hồ điểm sang năm mới, người dân khắp nơi lại kéo đến đền Bà Chúa Kho nườm nượp. Trong không khí tưng bừng ấy, có người đến để cầu tài, cầu lộc, cầu bình an nhưng không khó để nhận thấy đa phần là giới kinh doanh, buôn bán.
Đầu năm, người ta đến để “vay vốn” Bà Chúa Kho với mong muốn có một năm vốn liếng dồi dào, tiền bạc dư giả, làm ăn phát đạt. Cuối năm, họ lại mang trả số “vốn” bằng niềm tin ấy để cảm ơn “thần linh” phù hộ. Ông Phạm Hồng Thi – Phó Ban quản lý đền Bà Chúa Kho, sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Cổ Mễ (xã Vũ Ninh, T.P Bắc Ninh) cho hay: “Đầu xuân năm mới, người Việt mình thường tìm đến những địa điểm tâm linh như chùa chiền, đình, miếu để tụ hội.
Đa phần, mọi người đều kết hợp du xuân và khấn cầu sức khỏe và bình an cho bản thân cũng như người thân trong gia đình. Đền Bà Chúa Kho có đặc trưng nổi tiếng nhất chính là cho “vay vốn” làm ăn. Tất nhiên, đây chỉ là niềm tin tín ngưỡng, giúp mọi người có động lực hơn trong cuộc sống và việc phát triển kinh tế”.
Theo sử sách còn lưu lại, đền Bà Chúa Kho có liên quan đến sự kiện Lý Thường Kiệt lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược vào năm 1076. Theo đó, làng Cổ Mễ được chọn là nơi đặt kho quân lương của quân của nhà Lý ở bờ nam chiến tuyến sông Như Nguyệt (Sông Cầu ngày nay). Tương truyền, Bà Chúa Kho xuất thân từ một gia đình nghèo khó ở làng Quả Cảm gần đó. Bà được miêu tả là người con gái rất đẹp.
Sau khi lấy vua Lý và được phong là Linh Từ Quốc Chế, thấy ruộng đất ở đây còn bị hoang hóa nhiều, Bà đã xin vua cho về làng chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang và mở rộng khai hoang vào tận vùng Nghệ An bây giờ. Cũng vào khoảng thời gian này, Bà còn có công giúp triều đình trông coi kho lương thực tại Núi Kho (tỉnh Bắc Ninh). Vào ngày 12 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1077), Bà bị giặc giết trong lúc phát lương cứu giúp dân làng. Nhà vua thương tiếc hạ chiếu phong Bà là Phúc Thần. Người dân tỏ lòng biết ơn đã lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với sự tôn kính là Bà Chúa Kho.
Theo lời ông Thi thì ngay từ thời Pháp thuộc, nhiều thương nhân ở Hà Nội, Hải Phòng và các vùng lân cận đã tìm về quả núi này để khấn lễ và chiêm bái. Ngôi đền ngày đó còn rất nhỏ. Đầu thế kỷ 20, người Pháp đã cho xây dựng tại núi Kho nhà máy giấy Đông Dương. Đây là nhà máy rất lớn, bao trùm gần như toàn bộ quả núi. Khi ấy, người Pháp đã có ý định phá bỏ ngôi đền nhưng họ gặp phải sự phản đối quyết liệt của người dân địa phương. Vào năm 1967 khi giặc Mỹ điên cuồng bắn phá miền Bắc, TP. Bắc Ninh cũng là một trong những trọng điểm bị địch dội bom tàn phá.
Bộ đội ta đã đặt pháo 57 ly trên núi Kho, ngay sau đền để bảo vệ cầu Đáp Cầu. Điều kỳ lạ nhất với người Cổ Mễ là mặc dù máy bay địch dội bom san phẳng cả làng Cổ Mễ, san bằng nhiều điểm ở TP. Bắc Ninh, cày xới tan nát núi Kho nhưng không có quả bom nào rơi vào ngôi đền. Cầu Đáp Cầu và Cầu Phao chỉ cách đền Bà Chúa Kho mấy trăm mét và ngày đêm bị dội bom nhưng tuyệt nhiên không có quả bom nào lạc vào ngôi đền này.
Sơ đồ cúng lễ tại đền Bà Chúa Kho.
“Theo lưu truyền thì Bà Chúa Kho là người trông coi kho lương thực. Như vậy, Bà chính là người ban phát “nguồn sống” cho mọi người. Chính bởi vậy mà người ta mới tìm đến đây để “vay vốn”. Sự tồn tại vững vàng của ngôi đền khi trải qua bao mưa bom bão đạn cũng là một điều hết sức kỳ diệu và linh thiêng làm mọi người tin tưởng. Việc “vay vốn” diễn ra vào đầu năm và lễ tạ diễn ra vào cuối năm. Nhưng thời điểm cuối năm, tức thời điểm làm lễ tạ, lượng khách về đền cũng rất đông nhưng không bằng 1/10 thời điểm đầu năm.
Thường thì những người trở lại lễ tạ một là muốn giữ đúng nghi lễ, hai là thực sự thành công trong làm ăn. Cá nhân tôi nghĩ, việc “vay-trả” ở đây mang ý nghĩa tâm linh, mọi người chỉ nên coi là một trong những nét văn hóa tín ngưỡng truyền thống. Còn việc làm ăn có thành công hay không thì phải phụ thuộc vào năng lực và may mắn. Nếu chỉ cầu xin mà giàu thì cả nước đã giàu rồi”, ông Thi cho hay.
Ông Thi cho biết, mặc dù chỉ là nghi lễ tâm linh nhưng khi đã quyết định đến “vay vốn” Bà Chúa Kho thì phải thành tâm và giữ đúng lời hứa. Ông cho biết: “Nhiều người đến vay còn ghi rõ ràng trong sớ là vay bao nhiêu, làm gì, và ghi rõ vay một năm, hai năm, hay 5 năm sau sẽ trả, tức là tạ lễ. Thậm chí có người còn hứa là vay một trả 3, thậm chí vay một trả 10. Việc “vay” bao nhiêu, bao giờ trả là tùy mỗi người. Nhưng đã “vay” thì phải “trả”. Dù có làm ăn được hay không thì khi đã hứa với Bà Chúa Kho phải giữ đúng lời hứa.
Đó cũng chính là chữ “Tín” mà chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống hiện thực”. Ông Thi cũng chia sẻ thêm, việc sắm lễ của người dân khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ… là tùy tâm, không ai có thể hạn chế hay bắt ép. Tại đến Bà Chúa Kho, lễ vật dâng lên có thể đa dạng nhưng cũng phải chú ý những kiêng kị. Ông Thi hướng dẫn cụ thể như sau:
Dâng lễ:
– Lễ chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để dâng ban Thánh Mẫu.
– Lễ mặn: Nếu muốn dùng lễ mặn thì nên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả. Hoặc có thể dùng đồ mặn là thịt lợn, thịt gà…
– Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ Phủ.
– Cỗ Sơn Trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam. Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.
– Lễ ban thờ Cô, thờ Cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
– Lễ thần Thành Hoàng, Thư Điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.
Hạ lễ:
Sau khi kết thúc việc dâng lễ, khấn ở các ban thờ thì trong khi đợi hết một tuần nhang, người dân có thể viếng thăm phong cảnh nơi thờ tự. Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá. Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.
Theo An Lanh