Cao tăng vén màn bí ẩn về nhân loại ngày nay- Phần 1: Con người càng hiện đại càng hủy hoại chính mình
Từ xưa đến nay, trong giới tu luyện lưu truyền rất nhiều câu chuyện về các vị Đạo sĩ hay cao tăng đắc Đạo. Họ đã khai mở công năng, chứng đắc thần thông, và nhìn thấy được rất nhiều điều mà người thường không thể thấy. Dưới đây là lời kể của một vị cao tăng như thế.
Tôi là người ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, xuất gia làm hoà thượng đã hơn 20 năm rồi. Quê nhà chúng tôi rất kính ngưỡng Phật giáo, gần như từng làng từng thôn, từng nhà từng hộ đều có người tín Phật; và hễ có người xuống tóc đi tu thì cả gia tộc đều vô cùng tự hào.
Theo mẹ tôi kể lại, tôi được thọ giới khi vừa mới đầy tháng, trở thành tiểu đệ tử của Phật môn. Năm 1990, tôi tròn 25 tuổi và chính thức xuất gia, lúc ấy đứa con trai lớn của tôi đã lên 8 tuổi. Ngày tôi xuống tóc, tất cả dân làng đều đến chúc mừng tôi, ngay cả vợ tôi cũng tỏ ra vui mừng. Bởi theo phong tục ở quê tôi, những gia đình có người xuống tóc quy y thì vợ hoặc chồng và con cái của họ đều được cả làng chăm sóc.
Ngôi chùa tôi tu hành vốn rất nhỏ, nếu tính thêm cả tôi thì chưa đến 10 người. Sư phụ của tôi là một hòa thượng đã cao niên, những lúc bình thường ông rất ít nói chuyện, nhưng mọi người dân sống gần đó lại vô cùng tôn kính ông. Nhờ có sư phụ coi sóc, tôi chính thức bắt đầu cuộc sống tu hành. Ngôi chùa của chúng tôi thuộc về Phật giáo Tiểu thừa, chỉ cung phụng duy nhất Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Cuộc sống tu hành của các tăng nhân chúng tôi chỉ có trồng trọt, ăn cơm, ngồi thiền và tụng kinh, ngoài ra không còn gì khác nữa. Nhưng với tôi, tụng kinh là việc khó khăn nhất, bởi vì tôi không biết chữ nên không thể đọc hiểu kinh Phật. Tuy nhiên, sư phụ không yêu cầu tôi phải biết chữ, ông nói không biết chữ có khi còn là việc tốt, không đọc được kinh Phật cũng chưa chắc là chuyện xấu. Vì vậy ông đã miễn việc tụng kinh mà chỉ yêu cầu tôi phải nghiêm thủ giới luật, đả tọa tham thiền. Tuy nhiên, về sau này tôi lại biết chữ, từ từ tôi sẽ giải thích điều này.
Phật giáo Tiểu thừa chúng tôi thông qua nghiêm trì giới luật để nhiếp tâm, từ nhiếp tâm mà nhập định, từ nhập định mà khai mở trí huệ. Các sư huynh và sư đệ, thậm chí cả sư phụ của tôi, đều rất khó nhập định; trong cả một năm họ rất khó đạt được vài lần thật sự nhập định. Nhưng tôi thì khác, sau khi tu hành khoảng 3 tháng, tôi đã có thể nhập định trong lúc ngồi thiền.
Tôi biết rất nhiều cư sĩ tại gia cũng từng ngồi thiền, nhưng họ không nhất định thể nghiệm được cảm giác nhập định. Thật ra nhập định là khi các vị ngồi xếp bằng ở đó, khi tạp niệm dần dần diệt tận thì cơ thể sẽ tiến nhập vào một loại trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng, một niệm cũng không còn.
Ở trong trạng thái tĩnh lặng này, toàn bộ công năng cảm quan của thân thể người đều mất hết, bản thân cảm thấy thời gian mới trôi qua vài phút, thậm chí vài giây, nhưng khi xuất định lại thấy là vài tiếng đồng hồ rồi. Sư phụ tôi nói, sở dĩ con có thể nhập định mau chóng như vậy, thật ra là nhờ không biết chữ.
Tính đến mùa hè năm 1991 là tôi đã xuất gia được hơn 1 năm. Một buổi tối nọ, toàn bộ hòa thượng trong chùa chúng tôi ngồi đả toạ thành vòng tròn ngay trước Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca, lúc ấy tôi lại nhập định. Tuy nhiên, lần nhập định này không giống những lần trước, tôi cảm tưởng đã ngồi được một giờ đồng hồ, nhưng khi xuất định, các sư huynh nói rằng tôi đã ngồi trước tượng Phật ròng rã suốt 7 ngày rồi. Hơn nữa trong 7 ngày này, trên đỉnh đầu của tôi có một vầng sáng bảy màu, ngày đêm lưu chuyển không ngừng, ngay cả những người bình thường dùng mắt thịt cũng có thể nhìn thấy được. Nhưng vầng sáng ấy đến từ nơi nào? Không ai có thể nói rõ được.
Sau đó vài ngày, tôi phát hiện mình có công năng. Dù nhắm mắt lại tôi cũng có thể nhìn được đồ vật, hơn nữa còn nhìn thấy rõ ràng hơn cả khi mở mắt. Tôi hỏi sư phụ rằng rốt cuộc đó là chuyện gì, ông nói tôi đã khai mở thiên nhãn thần thông, đó dĩ nhiên là chuyện tốt. Từ đó, tôi càng dụng tâm tu hành hơn nữa.
Thời kỳ mạt kiếp Phật giáo không thể độ nhân – Tôi vân du tìm cầu chính Pháp
Đầu năm 1992, một buổi sáng sớm khi bái lạy trước tượng Phật, tôi đột nhiên thấy Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca phát ra ánh hào quang sáng chói, đồng thời từ đỉnh đầu tôi có một luồng nhiệt ấm nóng tràn vào trong thân thể, dần dần sung mãn khắp toàn thân, cả cơ thể tôi cũng tiến nhập vào một loại trạng thái mơ hồ, tựa như thời gian đã ngừng lại.
Cảm giác đó mỹ diệu phi thường, giống như đang tắm nước nóng trong mơ vậy. Tôi cảm tưởng như mình đột nhiên đại ngộ, đồng thời thiên nhãn thần thông của tôi đã tăng tiến thêm một bước nữa. Ngay tại lúc đó tôi đã nhìn thấy Pháp thân của Đức Phật Thích Ca ngự trên tượng Phật. Đồng thời, tôi còn nhớ lại rất nhiều sự tình trong các kiếp trước của mình.
Trong 2 kiếp trước đây, tôi đều xuất gia tu hành. Nhưng vì nghiệp tội đời đời kiếp kiếp tích lũy quá nhiều, chướng ngại trùng trùng, tôi đã không tu thành Chánh Quả. Trước khi viên tịch tôi lại phát thệ nguyện rằng đời sau vẫn tiếp tục tu hành, vậy nên đời này lại bước vào cửa Phật tiếp nối duyên xưa. Vì đã tu hành trong hai đời trước, nghiệp tội của tôi đã tiêu đi rất nhiều, lại tích được vô lượng công đức, vậy nên lần tu hành này đã trở nên dễ dàng vô cùng, là điều mà những người tu bình thường không cách nào so sánh được.
Dựa vào căn cơ cùng với hồng nguyện từ tiền kiếp, tôi chỉ cần tinh tấn kiên định thì nhất định đời này sẽ tu thành Chánh Quả. Nhưng đáng buồn là, khi tôi vừa mới nhớ lại những chuyện đời trước thì Pháp thân của Đức Phật đã khai thị rằng, Pháp của Ngài không còn độ nhân được, càng không thể khiến người ta tu thành Chánh Quả. Hơn nữa, người đời không còn tín Phật nên Phật Tổ cũng sắp buông bỏ thế gian, không còn quản chuyện của nhân gian nữa.
Nghe vậy lòng tôi không khỏi đau nhói, hai hàng nước mắt chảy mãi không ngừng. Ngay cả Phật Tổ cũng buông tay thì ai sẽ độ hóa cho những Phật tử như chúng tôi đây? Pháp thân của Đức Phật nói rằng, người này đi rồi ắt sẽ có người khác đến thay, trong tám vạn bốn nghìn pháp môn của Phật gia, tự nhiên sẽ có con đường độ hóa các con đến bờ bên kia của Niết Bàn.
Nói xong, Pháp thân liền biến mất. Khi tôi kể lại cho sư phụ và các sư huynh, sư đệ về chuyện này, sư phụ hỏi tôi dự tính thế nào, tôi đã đắn đo suy nghĩ rất lâu, cuối cùng nói với sư phụ rằng tôi sẽ đi vân du, đi tìm cầu chính Pháp.
Khai mở thiên nhãn, tôi thấy những điều người thường không thể thấy
Phần trên nhắc đến thiên nhãn thần thông, tôi biết rất nhiều người đều hứng thú với điều này.
Sau khi khai mở thiên nhãn, đặc biệt là sau khi nhớ lại những việc quá khứ trước đây, tôi đã có thể biết chữ, nhưng đều là chữ chính thể, còn chữ giản thể thì tôi không đọc được. Những quyển sách khác, tôi không cần lật mà chỉ đảo mắt một cái là toàn bộ đều biết hết. Bây giờ những cái gọi là khoa học kỹ thuật tiên tiến, trong mắt tôi đều rất đơn giản, nhìn một cái là hiểu rõ liền.
Thiên nhãn khai mở rồi, ngoài việc nhìn thấy những gì mà người bình thường không thể thấy ra, tôi còn có thể nhìn thấy một số Thần Tiên, quỷ quái, và những linh thể khác, hơn nữa còn có thể giao tiếp với họ. Nhưng thông thường tôi không hiểu được họ, bởi tôi là người tu Phật, không dễ lý giải được những Thần linh ở tầng thứ tương đối thấp này.
Bạn chắc chắn sẽ hiếu kỳ: Thần Tiên và quỷ quái tồn tại như thế nào? Hình thức đó quá nhiều rồi, phương thức tồn tại các dạng các loại đều có, muôn màu muôn vẻ. Nhưng nếu so với các Đấng Giác Giả thì chúng hoàn toàn kém xa, ngay cả so sánh cũng đều không thể nào so sánh được.
Con người là anh linh của vạn vật, nhưng nhân loại đang huỷ hoại chính mình
Có người biết rằng, động vật không được phép nghe giảng Phật Pháp, cũng không được phép tu luyện. Tại sao vậy? Bởi vì động vật không có các nhân tố thiết yếu để tu luyện Phật Pháp, đó chính là thân thể người.
Nói đến đây, tôi nghĩ đến thuyết tiến hóa của Darwin. Darwin nói con người là vượn tiến hóa mà thành, đây hoàn toàn là ăn nói xằng bậy. Các khoa học gia và y học gia hiện đại đều cho rằng Thể Tùng Quả là con mắt thứ ba đã thoái hóa của con người. Vậy tại sao khỉ, tinh tinh, vượn, cho đến hết thảy các loài linh trưởng đều chỉ có hai con mắt? Vì sao chúng không có con mắt thứ ba? Hơn nữa khi giải phẫu, những con vật này đều không có Thể Tùng Quả — điều này giải thích thế nào đây?
Xin nói rõ rằng, thông qua thiên nhãn tôi đã nhìn thấy được tình huống chân thật: Darwin thật ra là quỷ vương chuyển sinh vào cõi người, mục đích là làm loạn nhân gian. Thuyết tiến hóa mà ông đưa ra là đả kích vào tín ngưỡng của con người đối với Thần Phật, khiến người ta tin rằng nhân loại là vượn tiến hóa thành.
Con người cao quý nhường ấy, vậy mà lại hồ đồ tin vào cái tà thuyết đó thì chính là điều sỉ nhục nhất của loài người.
Thần Phật dẫu đại trí đại huệ, đại từ đại bi, thần thông vô thượng, thì cũng không thể can thiệp vào nhân tâm. Nhân tâm không hướng thiện, không quy chính, thì Thần Phật cũng chẳng còn cách nào.
Người hiện đại không tin vào Thần Phật, cũng không muốn tu luyện Phật Pháp, nhưng động vật thì lại không như vậy. Động vật điều gì cũng minh bạch, vậy nên chúng trăm phương nghìn kế muốn có được thân thể người để được phép nghe Pháp, được phép tu luyện. Đây chính là tình huống chân thật của nhân loại ngày nay. Rất nhiều người trên thế gian này, các vị đừng nhìn thấy họ có hình người, cũng nói tiếng người, bề ngoài là con người, nhưng họ đã không còn là người nữa, mà đã bị linh hồn của động vật bám lên và thao túng thân thể người.
Những cô gái chủ động đi làm kỹ nữ, có đến 99% mang phụ thể là cáo. Chúng dùng phương thức này để lấy cắp tinh huyết của con người. Một đoạn thời gian trước, chẳng phải Bắc Kinh đã truy ra một kỹ viện gọi là “thiên đường ở nhân gian” hay sao? Những phụ nữ bán dâm trong đó đều là hồ yêu phụ thể, quả thật yêu khí ngất trời.
Tại sao nói rằng đến chốn ăn chơi kỹ viện sẽ hao tổn phúc thọ? Chính là vì bên trong cơ thể những kỹ nữ này có quá nhiều yêu quái, chúng dựa vào phương thức này để ăn cắp tinh khí con người.